Nghiên cứu về tác dụng của đậu nành với tuyến giáp

Trước đây nhiều ý kiến cho rằng có tác động tiêu cực của đậu nành với tuyến giáp và có thể làm thay đổi mức độ của ẖorⅿoꝴe tuyến giáp. Vậy…

Trước đây nhiều ý kiến cho rằng có tác động tiêu cực của đậu nành với tuyến giáp và có thể làm thay đổi mức độ của ẖorⅿoꝴe tuyến giáp. Vậy sự thực như thế nào? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu điều này qua một bài dịch từ tài liệu chuyên ngành của các bác sĩ, tiến sĩ y dược các trường đại học của Anh và Iran.

Đôi lời của người dịch:

  • Đây là một báo cáo mà người dịch đã dịch tóm tắt từ một báo cáo đầy đủ rất dài. Đây là một báo cáo khoa học chuyên sâu, nó có một số phần khó hiểu với cả người dịch. Vì vậy, tôi xin lưu ý là phần này ai có chuyên môn sâu chút thì tìm hiểu sau, thậm chí phản biện sau.
  • Trước mắt, tôi sẽ tóm tắt theo sự hiểu biết của mình báo cáo này. Các bạn có thể tham khảo và ứng dụng các kết luận này cho đến khi khoa học có thêm những bằng chứng khác giúp làm rõ các vấn đề chúng ta đang còn thắc mắc và băn khoăn.
  • Mọi điều chúng ta áp dụng, hãy cố gắng tìm hiểu dựa trên các bằng chứng khoa học, đừng nghe theo lời mách bảo truyền tai của người không có chuyên môn. Vì đôi khi, sự mách bảo này lợi bất cập hại, tiền mất tật mang.

đậu nành với tuyến giáp

Tóm tắt nghiên cứu và kết luận về tác dụng của đậu nành với tuyến giáp:

  • Là kết quả tổng hợp các nghiên cứu gồm 4976 tài liệu, cập nhật đến tháng 8.2018.
  • Cơ sở nghiên cứu: trước đây có nhiều ý kiến cho rằng, đậu nành có thể có tác động tiêu cực đến chức năng tuyến giáp và có thể làm thay đổi mức độ của ẖorⅿoꝴe tuyến giáp.
  • Đã có nhiều lợi ích được công bố cho thấy đậu nành có lợi cho người chống loãng xương, ᶀệꝴh tim mạch, ünġ ṭẖư vú và ünġ ṭẖư tuyến tiền liệt, hội chứng chuyển hóa, ᶀệꝴh tiểu đường và sức khỏe của người mãn kinh và sau mãn kinh.
  • Thực tế nghiên cứu cho thấy:
    • Trong đậu nành có chứa thành phần chính là Protein đậu nànhIsoflavone. Trong thực phẩm, nó ở dạng không hoạt động. Chẳng hạn như genistin và daizin, có trong đậu nành dưới dạng D-glycoside.
    • Khi chúng ta ăn đậu nành, vi khuẩn đường ruột sẽ tiết ra các men tiêu hóa Protein đậu nành và Isoflavone tạo thành các dạng hoạt động của isoflavone, như genistein và daidzein.
    • Trong phòng thí nghiệm và trên động vật, đã chứng minh được isoflavone ức chế hoạt động của peroxidase tuyến giáp (TPO), một loại enzyme liên quan đến tổng hợp trii೦dothyronine (T3) và thyroxine (T4) – là các ẖorⅿoꝴ tuyến giáp. Tuy nhiên đây là nghiên cứu trên lab và trên động vật, không phải trên người.

đậu nành với tuyến giáp

  • Có một số bằng chứng cho thấy rằng tiêu thụ đậu nành (ở người khỏe mạnh) có liên quan đến các rối loạn tuyến giáp như suy giáp, bướu cổ và ᶀệꝴh tuyến giáp tự miễn.
  • Nhưng vào năm 2015, Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu (EFSA) đã tiến hành đánh giá rủi ro bao gồm tác dụng của protein đậu nành và isoflavone đậu nành đối với chức năng tuyến giáp, EFSA kết luận isoflavone đậu nành không ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp.
  • Liều dùng trong các nghiên cứu dao động trong khoảng 40 – 200 mg isoflavone/ngày. Liều này dựa trên nghiên cứu người lớn tuổi ở Nhật Bản tiêu thụ khoảng 25 – 50 mg isoflavone/ngày.
  • Tính ra, lượng đậu nành tiêu thụ hàng ngày theo nghiên cứu này thì 40-200mg isoflavon tương ứng với: khoảng 30 đến 150g đậu hạt/bột đậu, hoặc khoảng 140-700g đậu phụ/ngày. Số lượng này tương ứng với ăn 4-20 cốc bột đậu/ngày hoặc 3-14 bìa đậu nhỏ/ngày.
  • Chúng ta có thể thấy, như vậy để có hiệu quả như nghiên cứu, hàng ngày ᶀệꝴh nhân đang sử dụng đậu nành với một lượng rất lớn và liên tục. Chế độ ăn thông thường của chúng ta thì không cung cấp được số lượng lớn như nghiên cứu, ngoại trừ chế độ ăn thực phẩm bổ sung hoặc dùng thực phẩm chức năng có chứa isoflavone đậu nành, chiết xuất đậu nành, protein đậu nành, isoflavone giàu daidzein và genistein.
  • Kết quả nghiên cứu cho thấy: dù dùng hàm lượng đậu nành cao như trên, chỉ số trii೦dothyronine (fT3), thyroxine tự do (fT4) và không có thay đổi, trong khi ẖorⅿoꝴe kích thích tuyến giáp (TSH) được quan sát thấy có tăng rất khiêm tốn và sự gia tăng TSH là không rõ ràng trong lâm sàng.

Vậy thái độ của chúng ta như thế nào?

  • Với ᶀệꝴh nhân đã cắt hết tuyến giáp, đã ᵭiều ṯrị i೦d, thì không còn tuyến giáp để mà ảnh hưởng nữa.
    • Tất cả các thức ăn mà có ảnh hưởng (dù tích cực hay tiêu cực) đến tuyến giáp thì không còn ý nghĩa nữa. Chúng ta không cần quan tâm.
    • Điều này có nghĩa chúng ta không bị hạn chế bất cứ một loại thức ăn gì đối với tuyến giáp nữa, kể cả đậu nành hay bất cứ thức ăn nào.
    • Điều quan tâm của chúng ta là: thời điểm các ṭhüốc, hay thức ăn mà ta đang ăn uống bổ sung hàng ngày có ảnh hưởng đến ẖorⅿoꝴ tuyến giáp hay không. Nếu bạn dùng ẖorⅿoꝴ tuyến giáp ngay khi mới ngủ dậy, bụng đang rỗng, và sau 30 phút trở lên bạn mới ăn sáng, thì khi đó ṭhüốc đã được hấp thu hoàn toàn vào máu, bạn không còn lo tương tác hay ảnh hưởng gì nữa. Bạn có thể ăn uống tùy ý, không phải kiêng khem gì.

đậu nành với tuyến giáp

  • Với các ᶀệꝴh nhân cắt bán phần tuyến giáp (hoặc cắt gần hết tuyến giáp), hoặc ᶀệꝴh suy giáp, bướu giáp, ᶀệꝴh tuyến giáp tự miễn: nên hạn chế thức ăn từ đậu nành. Không nhất thiết phải kiêng hoàn toàn, vì nghiên cứu trên, có ảnh hưởng đến người khỏe mạnh cũng phải tiêu thụ một lượng rất lớn và liên tục. Chúng ta có thể ăn ít vẫn được và không ăn quá thường xuyên. Cứ ít hơn ngưỡng này 4-20 cốc bột đậu/ngày hoặc 3-14 bìa đậu nhỏ/ngày là yên tâm rồi.
  • Với ᶀệꝴh nhân cường giáp: khuyến khích ăn thức ăn từ đậu nành với lượng lớn.

Tham khảo ý kiến chuyên gia về đậu nành với tuyến giáp và các ᶀệꝴh lý khác.

———————–

đậu nành với tuyến giáp

Chi tiết bài dịch nghiên cứu sau đây, nếu bạn có hứng thú nghiên cứu thì đọc, không thì thôi nhé:

Công trình tổng hợp của các tác giả các trường Đại học Y, Dược và Nội tiết- chuyển hóa của Anh, Iran trên một số lượng tài liệu nghiên cứu đồ sộ của 4925 tài liệu và bổ sung thêm 51 tài liệu khác, cập nhật đến tháng 8 năm 2018.

Tóm tắt:

  • Thực phẩm đậu nành đã có một vai trò chế độ ăn uống quan trọng ở các nước châu Á trong nhiều thế kỷ, và trong những năm gần đây, chúng đã trở nên ngày càng phổ biến ở các nước phương Tây do các lợi ích sức khỏe được đề xuất của họ. Tuy nhiên, có một số lo ngại rằng đậu nành với tuyến giáp có thể có tác động tiêu cực và có thể làm thay đổi mức độ của ẖorⅿoꝴe tuyến giáp.
  • Mục đích của tổng quan hệ thống này là điều tra mối liên hệ giữa tiêu thụ sản phẩm đậu nành hoặc đậu nành với tuyến giáp thông qua việc đo nồng độ ẖorⅿoꝴe tuyến giáp.
  • Một đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp đã được thực hiện trên tất cả các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát các nghiên cứu bao gồm đậu nành như một can thiệp và khi đo trii೦dothyronine (fT3), thyroxine tự do (fT4) và ẖorⅿoꝴe kích thích tuyến giáp (TSH).
  • Tìm kiếm bao gồm PubMed, MEDLINE, EMBASE, Cochrane và các nguồn tài liệu khác.
  • Tổng hợp dữ liệu định lượng được thực hiện bằng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên, với chênh lệch trung bình chuẩn (SMB) và khoảng tin cậy 95% làm thống kê tóm tắt.
  • Tổng cộng có 18 bài viết phù hợp để xem xét. Phân tích tổng hợp cho thấy không có thay đổi đáng kể trong fT3, fT4, trong khi mức tăng TSH được quan sát thấy với việc bổ sung đậu nành. Bổ sung đậu nành không có tác dụng đối với ẖorⅿoꝴe tuyến giáp và chỉ tăng rất khiêm tốn nồng độ TSH, sự gia tăng TSH là không rõ ràng và không có ý nghĩa lâm sàng.

Giới thiệu

  • Đậu nành là nguyên liệu chính trong chế độ ăn kiêng ở các nước Nam và Đông Á trong nhiều năm và đã trở nên phổ biến ở các nước phương Tây do các lợi ích sức khỏe được đề xuất bao gồm bảo vệ chống loãng xương, ᶀệꝴh tim mạch, tiểu đường, ünġ ṭẖư vú và ünġ ṭẖư tuyến tiền liệt.
  • Hai thành phần chính của đậu nành được cho là chịu trách nhiệm cho các lợi ích sức khỏe được đề xuất là protein đậu nành và isoflavone đậu nành.
  • Người ta tin rằng isoflavone có trong đậu nành là các hợp chất hoạt động chính tạo ra cả tác dụng nội tiết tố và không nội tiết tố.
    • Isoflavone là một phân lớp của các hợp chất thực vật phổ biến được gọi là flavonoid.
    • Chúng thường tồn tại trong thực phẩm dưới dạng không hoạt động sinh học, chẳng hạn như genistin và daizin, có trong đậu nành dưới dạng D-glycoside.
    • Các glycoside này có thể bị thủy phân và khử bởi glycosidase được tổng hợp bởi vi khuẩn đường ruột để tạo thành các dạng isoflavone hoạt động của isoflavone, như genistein và daidzein.
    • Sự quan tâm của cộng đồng đối với lợi ích sức khỏe của isoflavone từ đậu nành đã dẫn đến sự phát triển của chất bổ sung isoflavone và tăng cường thực phẩm với isoflavone.
  • Tuy nhiên, có suy đoán rằng đối với một số chất từ thực phẩm đậu nành và isoflavone có thể gây bất lợi. Người ta đã lo ngại rằng đậu nành có thể ảnh hưởng xấu đến chức năng tuyến giáp ở những người nhạy cảm bằng cách can thiệp vào sự hấp thụ của ẖorⅿoꝴe tuyến giáp tổng hợp.
  • Mặc dù tác dụng chống tuyến giáp của đậu nành đã được nghiên cứu ở động vật trong nhiều thập kỷ, nhưng việc xác định một số trường hợp phình tuyến giáp ở trẻ sơ sinh sử dụng sữa đậu nành vào đầu những năm 1960, hơn 60 năm trước, đã trở nên rõ ràng. Người ta đã chứng minh rằng isoflavone ức chế hoạt động của peroxidase tuyến giáp (TPO), một loại enzyme liên quan đến tổng hợp trii೦dothyronine (T3) và thyroxine (T4), nghiên cứu được thực hiện trên chuột và trong ống nghiệm.

Có một số bằng chứng cho thấy rằng tiêu thụ đậu nành có liên quan đến các rối loạn tuyến giáp như suy giáp, bướu cổ và ᶀệꝴh tuyến giáp tự miễn.

  • Các tác động sức khỏe cộng đồng tiềm năng của hiệu ứng chống tuyến giáp có thể có của đậu nành là quan trọng vì có đến 10% phụ nữ sau mãn kinh, cho là thực phẩm đậu nành có sức hấp dẫn đặc biệt, có thể là suy giáp, và một tỷ lệ lớn trong số này chưa được cẖẩꝴ ᵭoáꝴ.
  • Vì vậy, điều quan trọng là làm rõ mối quan hệ giữa đậu nành và chức năng tuyến giáp.
  • Đã có đánh giá tài liệu về tác dụng của protein đậu nành và isoflavone đậu nành đối với chức năng tuyến giáp ở người trưởng thành khỏe mạnh và ᶀệꝴh nhân suy giáp năm 2006, mặc dù đây không phải là tổng quan nghiên cứu có ý nghĩa mở rộng.
  • Năm 2015, Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu (EFSA) đã tiến hành đánh giá rủi ro bao gồm tác dụng của protein đậu nành và isoflavone đậu nành đối với chức năng tuyến giáp, tuy nhiên, đã có một số nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát được công bố sau tổng quan này.
  • EFSA kết luận isoflavone đậu nành không ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp.

Vật liệu và phương pháp

Chiến lược tìm kiếm

Một tìm kiếm được cập nhật trong PubMed cho giai đoạn tháng 8 năm 2016 đến tháng 8 năm 2018. Sau đó đã được tiến hành bổ sung các bài báo gần đây nhất được xuất bản cho đến tháng 8 năm 2018.

Lựa chọn nghiên cứu

Các nghiên cứu ban đầu được đưa vào nếu chúng đáp ứng các tiêu chí sau đây:

(i) Thử nghiệm ở người trưởng thành,

(ii) là thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát với thiết kế song song hoặc chéo,

(iii) điều tra tác động của các sản phẩm đậu nành, ví dụ như isoflavone, genistein và / hoặc daizein về nồng độ trong huyết tương / huyết thanh của TSH, fT3 và fT4, và,

(iv) trình bày đầy đủ thông tin về nồng độ TSH, fT3 và fT4 ở mức cơ bản và khi kết thúc theo dõi trong mỗi nhóm hoặc cung cấp các giá trị thay đổi với dữ liệu chưa xử lý.

Tiêu chí loại trừ là:

(i)            Thử nghiệm trên động vật,

(ii)           Thử nghiệm trẻ em / vị thành niên

(iii)          Nghiên cứu quan sát với kiểm soát trường hợp, thiết kế cắt ngang hoặc đoàn hệ và

(iv)         Thiếu thông tin đầy đủ về đường cơ sở hoặc theo dõi TSH, nồng độ fT3 và fT4.

Khai thác dữ liệu

Các nghiên cứu đủ điều kiện đã được xem xét và dữ liệu sau đây được tóm tắt bởi hai đồng tác giả.

Mọi bất đồng đã được giải quyết thông qua thảo luận và tham khảo ý kiến của đồng tác giả thứ ba:

(1) tên tác giả đầu tiên;

(2) năm xuất bản;

(3) đất nước là nghiên cứu đã được thực hiện;

(4) thiết kế nghiên cứu;

(5) số người tham gia nhóm can thiệp và kiểm soát / giả dược;

(6) can thiệp được chỉ định cho nhóm kiểm soát nếu có;

(7) loại sản phẩm đậu nành (isoflavone, genistein và / hoặc daidzein) và liều bổ sung đậu nành;

(8) thời gian ᵭiều ṯrị;

(9) tuổi, giới tính và chỉ số khối cơ thể (BMI) của những người tham gia nghiên cứu; và

(10) dữ liệu liên quan đến nồng độ TSH, fT3 và fT4 trong huyết tương theo dõi.

Tổng hợp dữ liệu định lượng

  • Trong trường hợp nghiên cứu với nhiều nhánh ᵭiều ṯrị và một nhóm đối chứng, số lượng đối tượng trong nhóm đối chứng được chia thành các phần bằng nhau để tránh tính hai lần của một cá nhân trong phân tích tổng hợp.
  • Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nghiên cứu đến kích thước hiệu ứng tổng thể, phân tích độ nhạy được thực hiện bằng phương pháp bỏ qua (nghĩa là loại bỏ một nghiên cứu mỗi lần và lặp lại phân tích).
  • Vì tương quan trước kiểm tra sau kiểm tra, các hệ số (R) không được báo cáo bởi các nghiên cứu, giá trị (R) là 0,5 được giả định thông qua phân tích tổng hợp này, vì giá trị này là ước tính thận trọng cho R nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
  • Để kiểm tra xem giá trị R có thể thay đổi kết quả phân tích tổng hợp hay không, phân tích độ nhạy được thực hiện bằng cách lặp lại phân tích với các giá trị R là 0,2, 0,3, 0,7 và 0,8. Kết quả cho thấy sự trùng khớp về kết quả với các giá trị R khác nhau.

Các kết quả

  • 4925 tài liệu tham khảo đã được tìm thấy thông qua tìm kiếm tài liệu, với 1816 tài liệu tham khảo còn lại sau khi sao chép lại. Ngoài ra, 145 bài báo đã được xác định trong tìm kiếm PubMed cập nhật và sàng lọc bằng tay. Tổng cộng có 4 bài báo mới đã được chọn để đưa vào nghiên cứu.
  • Tổng cộng, sau các tìm kiếm ban đầu và cập nhật, 84 tài liệu tham khảo đã được xác định trong sàng lọc TI / AB, 23 còn lại sau khi sàng lọc toàn văn và cuối cùng là 18 được chọn để đưa vào phân tích tổng hợp. Có thể tìm thấy sơ đồ luồng PRISMA của quá trình sàng lọc và lựa chọn.
  • Các can thiệp được sử dụng trong các nghiên cứu chủ yếu là thực phẩm bổ sung có chứa isoflavone đậu nành, chiết xuất đậu nành, protein đậu nành, isoflavone giàu daidzein và genistein đơn thuần.
  • Liều dùng trong các nghiên cứu dao động trong khoảng 40 – 200 mg isoflavone/ngày. Liều này dựa trên nghiên cứu người lớn tuổi ở Nhật Bản tiêu thụ khoảng 25 – 50 mg isoflavone/ngày (được tính với lượng aglycone tương đương). Chúng tôi chỉ đánh giá fT3 và fT4 vì chúng là dạng hoạt động của ẖorⅿoꝴe tuyến giáp và vì chúng không liên kết với protein huyết tương.

Tổng hợp dữ liệu định lượng

  • Phân tích tổng hợp dữ liệu từ 21 và 22 nhánh ᵭiều ṯrị không cho thấy bất kỳ ảnh hưởng đáng kể nào của việc tiêu thụ sản phẩm đậu nành đối với fT3 và fT4.
  • Tuy nhiên, phân tích 26 nhánh ᵭiều ṯrị cho thấy sự gia tăng đáng kể nồng độ TSH sau khi tiêu thụ sản phẩm đậu nành.
  • Việc loại bỏ lặp lại các nhánh nghiên cứu được bao gồm trong phân tích tổng hợp không cho thấy độ nhạy của ước tính kích thước hiệu ứng gộp với bất kỳ nhánh ᵭiều ṯrị nào trong các phân tích tổng hợp của fT3 và fT4. Tuy nhiên, phân tích tổng hợp TSH rất nhạy cảm với một trong các nhánh ᵭiều ṯrị.
  • Chúng tôi đã thực hiện phân tích phân nhóm TSH cho các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn và nguồn không đồng nhất giữa các nghiên cứu bao gồm giới tính, tình trạng mãn kinh, tình trạng sức khỏe ở mức cơ bản, thời gian ᵭiều ṯrị và sự hiện diện của ᶀệꝴh suy giáp cận lâm sàng.
  • Phân tích phân nhóm các thay đổi trong TSH cho thấy thời gian ᵭiều ṯrị lớn hơn hoặc bằng ba tháng và sự hiện diện của suy giáp cận lâm sàng tại đường cơ sở là đáng kể.

Thảo luận

  • Tổng quan kết quả nghiên cứu này cho thấy có sự thay đổi đáng kể về TSH và không có thay đổi đáng kể về nồng độ fT3 và fT4 do bổ sung protein đậu nành và/hoặc isoflavone. Điều này gợi ý rằng đậu nành gây bất lợi cho chức năng tuyến giáp, trong khi đó các báo cáo lâm sàng chỉ số này lại chưa được ghi nhận rõ ràng.
  • Đây là điều ngược lại được báo cáo từ đánh giá rủi ro EFSA năm 2015: thực phẩm bổ sung chứa isoflavone cho thấy không gây ra bất kỳ ảnh hưởng đáng kể nào đến chức năng tuyến giáp ở phụ nữ mãn kinh hoặc sau mãn kinh; tuy nhiên, các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng mới đã được công bố kể từ báo cáo này.
  • Một nghiên cứu kiểm tra tác dụng của isoflavone đậu nành ở ᶀệꝴh nhân đái tháo đường týp 2 và thiểu năng tuyến sinh dục cho thấy sự gia tăng đáng kể về TSH và giảm fT4 khi dùng 12 tuần bổ sung protein đậu nành và isoflavone, mặc dù không phát hiện được qua thăm khám cận lâm sàng hoặc không thấy rõ ràng tình trạng suy giáp.
  • Một nghiên cứu khác được công bố gần đây so sánh việc bổ sung protein đậu nành và protein casein (không có isoflavone đậu nành) ở ᶀệꝴh nhân suy giáp cận lâm sàng, báo cáo cho thấy không có thay đổi đáng kể trong chức năng tuyến giáp.
  • Trong một trong những nghiên cứu ở những ᶀệꝴh nhân bị suy giáp cận lâm sàng so sánh hiệu quả của phytoestrogen liều thấp (2 mg so với chế độ ăn phương Tây) với phytoesterogen liều cao hơn (so với chế độ ăn chay), không có thay đổi đáng kể trong xét nghiệm chức năng tuyến giáp. Tuy nhiên, trong số 60 ᶀệꝴh nhân, sáu trong số 52 đối tượng nữ (11,5%) tiến triển thành suy giáp sau khi dùng isoflavone 16mg trong thời gian 6 tháng cho thấy tăng gấp 3 lần từ suy giáp cận lâm sàng đến suy giáp rõ ràng.
  • Các sản phẩm thực phẩm có chứa đậu nành có khả năng liên quan đến sự suy giảm chức năng tuyến giáp. Bướu cổ đã được nhìn thấy ở trẻ sơ sinh ăn sữa đậu nành; điều này thường được đảo ngược bằng cách thay đổi chế độ ăn bổ sung sữa bò hoặc iốt. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và nghiên cứu trên động vật gặm nhấm bổ sung isoflavone phân lập cho thấy đậu nành có thể có tác dụng chống tuyến giáp. Có những lo ngại rằng chúng có thể ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp, nhất là đối với ᶀệꝴh nhân bị suy giáp cận lâm sàng hoặc suy giáp rõ ràng, đặc biệt là trong khi mang thai.
  • Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã chứng minh rằng isoflavone ức chế peroxidase tuyến giáp (TPO), một loại enzyme liên quan đến quá trình tổng hợp T3 và T4 .
  • Phân tích phân nhóm về những thay đổi trong TSH cho thấy thời gian ᵭiều ṯrị dài hơn hoặc bằng ba tháng và sự hiện diện của suy giáp cận lâm sàng là rất đáng kể. Điều này cho thấy rằng đậu nành có thể có tác dụng nhiều hơn đối với những người có chức năng tuyến giáp bị tổn ṭẖươꝴg ở mức cơ bản hoặc có nhiều tình trạng ᶀệꝴh khác nhau hoặc dùng trong thời gian dài hơn.
  • Hạn chế của phân tích tổng hợp hiện tại là: dân số được phân tích bao gồm một số đối tượng hạn chế vì cỡ mẫu trong một số thử nghiệm lâm sàng là nhỏ và thời gian ᵭiều ṯrị của nhiều thử nghiệm là ngắn. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy sự gia tăng đáng kể về TSH và cải thiện các rủi ro tim mạch được thực hiện bởi nhóm tại Hull, Vương quốc Anh. Và hầu hết các nghiên cứu ở ᶀệꝴh nhân đã mắc ᶀệꝴh. Chẳng hạn như ᶀệꝴh tiểu đường loại 2 và cả ở những ᶀệꝴh nhân có chức năng tuyến giáp bị tổn ṭẖươꝴg một phần như suy giáp cận lâm sàng.
  • Chỉ có một sự gia tăng TSH khiêm tốn 10% có thể không liên quan đến dân số khỏe mạnh nhưng có thể có tác dụng đáng kể về mặt lâm sàng của ᶀệꝴh nhân bị suy giảm chức năng tuyến giáp như suy giáp cận lâm sàng. Dựa trên điều này, nghiên cứu và phân tích sâu hơn được khuyến nghị bao gồm điều tra thêm về ᶀệꝴh nhân suy giáp cận lâm sàng, không chỉ vì những ảnh hưởng có thể có đối với chức năng tuyến giáp mà còn do nhiều tác dụng có lợi bao gồm sức khỏe tim mạch, hội chứng chuyển hóa, ᶀệꝴh tiểu đường và sức khỏe của người sau mãn kinh.
  • Tóm lại, phân tích tổng hợp này cho thấy rằng bổ sung đậu nành không có tác dụng đối với ẖorⅿoꝴe tuyến giáp và tăng nhẹ mức TSH, sự gia tăng TSH là không rõ ràng trong lâm sàng.

 

Tài liệu tham khảo:

Bản tóm tắt: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/30850697

Bản đầy đủ: https://www.nature.com/articles/s41598-019-40647-x

ĐẶT MUA SẢN PHẨM

+ Canxi cá Tuyết Plus  14 gói/hộp /Giá bán lẻ 290.000/ hộp
MUA 10 TẶNG 1 bằng hình thức tích điểm (không cần mua 1 lúc)
– Phí vận chuyển: 20.000đ (miễn phí cho đơn hàng từ 4 hộp trở lên)


+ Canxi cá Tuyết 100 viên/hộp /Giá bán lẻ 385.000/ hộp
MUA 8 TẶNG 1 bằng hình thức tích điểm (không cần mua 1 lúc)
– Phí vận chuyển: 20.000đ (miễn phí cho đơn hàng từ 3 hộp trở lên)

SẢN PHẨM ĐƠN GIÁ SỐ LƯỢNG THÀNH TIỀN
Canxi Cá Tuyết PLUS Hộp 14 gói 290.000đ/hộp 290.000đ
Canxi Cá Tuyết Hộp 100 viên 385.000đ/hộp 385.000đ
Tổng 675.000đ
Phí trên đã bao gồm chi phí vận chuyển









    Sản phẩm này không phải là ṭhüốc, không thay thế ṭhüốc chữa ᶀệꝴh.Tác dụng khác nhau tùy cơ địa mỗi người

    Để lại một bình luận

    You cannot copy content of this page

    098.124.9588
    Liên hệ